Gebärdensprache – ngôn ngữ ký hiệu – NNKH

Đặc điểm của ngôn ngữ ký hiệu Việt Nam 27.07.2012
http://www.deafhanoi.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=38
Ý nghĩa của cuộc đời là dám hành động (– Karl Marx –).
Đúng vậy, chúng ta cần phải hành động để thực hiện ý tưởng.

1. Từ vựng:
Ngôn ngữ ký hiệu thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 58% từ vựng cốt lõi cơ bản của nó giống với ngôn ngữ ký hiệu Hà Nội và 54% giống với ngôn ngữ ký hiệu Hải Phòng. Những tỉ lệ này cho thấy ngôn ngữ ký hiệu thành phố Hồ Chí Minh, ngôn ngữ ký hiệu Hà Nội và ngôn ngữ ký hiệu Hải Phòng không phải là những phương ngữ khác của cùng một ngôn ngữ. Bởi vì những phương ngữ của cùng một ngôn ngữ thường được mong đợi là phải chia sẻ từ khoảng 80% trở lên tỉ lệ cùng nguồn gốc với nhau về từ vựng cốt lõi cơ bản. Tuy nhiên những tỉ lệ này xác định rằng 3 ngôn ngữ ký hiệu quan trọng ở Việt Nam có thể được sắp xếp gần như là những ngôn ngữ có mối quan hệ thuộc cùng một họ ngôn ngữ. Những ngôn ngữ có liên quan trong cùng một họ ngôn ngữ có thể được mong đợi chia sẻ từ 36% đến 79% từ vựng cơ bản (ngôn ngữ ký hiệu của Mỹ và Pháp, những ngôn ngữ được xem là có liên quan trong cùng một họ ngôn ngữ chia sẻ khoảng từ 61% từ vựng cơ bản. Ngôn ngữ ký hiệu của Mỹ và Anh không có quan hệ gần nhau vì không chung một họ ngôn ngữ giống nhau, chúng chỉ có 31% cùng nguồn gốc trong từ vựng cơ bản.

Những người nghe thường có nhiều khái niệm nhầm lẫn về ngôn ngữ ký hiệu. Ví dụ những người nghe trong nhiều quốc gia thường cho rằng ngôn ngữ ký hiệu là toàn cầu. Hay là người nghe cho rằng lịch sử và cấu trúc của ngôn ngữ ký hiệu là tương tự với những ngôn ngữ nói trong quốc gia đó. Tuy nhiên với những bằng chứng mà chúng tôi đã trình bày ở trên về sự biến đổi trong ngôn ngữ ký hiệu đã chỉ ra rằng NNKH không phải là toàn cầu, bởi vì những từ vựng của NNKH thay đổi thậm chí trong cùng một đất nước, như là Việt Nam.

Vốn từ ngữ của người câm điếc khá nghèo nàn chỉ có khoảng 200 từ có những từ quen thuộc không có.

VD: con bê, con nghé,…Hoặc nếu có thì không thống nhất mà được ký hiệu theo cách hiểu của cộng đồng hoặc cá nhân.

Trong vốn từ của người khiếm thính chủ yếu là động từ, các tính từ chỉ có một cấp độ ví dụ: Vui chứ không có vui vẻ hay phấn khích. không có các liên từ như: và, thì, là, mà,..

Cách cấu tạo từ ngữ trong NNKH chủ yếu là lắp ghép đơn thuần

VD: Ký hiệu hoa hồng = hoa + hồng ( xoa má như trong má hồng)

Hoa sữa= hoa + sữa ( như ký hiệu uống sữa)Trong hệ thống ngôn ngữ cử chỉ ở Việt Nam hiện nay, chỉ có một số từ rất đơn giản về giới như „con trai“, „con gái“, còn hầu hết những từ dùng để chỉ các cơ quan sinh dục, từ nói về thay đổi sinh lý trong cơ thể, quá trình thụ thai đều không có.

Cách cấu tạo ký hiệu của người khiếm thính phụ thuộc vào những lý do như sau: vốn sống của người khiếm thính khá ít ỏi do học ít tiếp xúc với xã hội, do không được học hành nên vốn hiểu biết gần như không có.Trong khi người bình thuờng tư duy bằng hình dạng, âm thanh, màu sắc thì người câm điếc tư duy có tính hình tượng, trực quan, cụ thể cao hơn Bên cạnh đó là sự thiếu quan tâm của gia đình đến sự phát triển tâm lý trong độ tuổi dậy thì và thanh thiếu niên khiến trẻ khiếm thính gần như bị cô lập dễ bị trầm cảm từ đó dẫn đến không muốn tiếp xúc với cộng đồng.

2. Ngữ âm:

Đọc hình miệng là một quá trình tâm lý phức tạp của người điếc để tri giác tiếng nói theo sự vận động cấu âm thấy được của bộ máy phát âm và những động tác điệu bộ kèm theo ngôn ngữ của chúng ta. Đây là phương thức duy nhất có thể có để người câm điếc tri giác tiếng nói, là hình thức đặc thù của NNKH.

Khó khăn của quá trình đọc hình miệng là ở chỗ không phải tất cả mọi âm vị của ngôn ngữ chúng ta đều dễ dàng nhìn thấy khi phát âm.Một số âm tương đối dễ nhìn thấy ( a,o, u, b, m..) một số âm khác khó hơn hoặc hoàn toàn không nhận thấy được (g, kh, t, đ, n..)

Bằng thính giác chúng ta phân biệt được 42 âm vị trong ngôn ngữ của chúng ta.Mỗi âm vị đều có những dấu hiệu đặc trưng: phương thức và vị trí hình thành âm hũu thanh hay vô thanh, âm cứng hay mềm.Tai của chúng ta có khả năng nhận biết và phân biệt tất cả những sắc thái âm thanh rất nhỏ.Về mặt này cơ quan thị giác kém hoàn hảo và ít thích ứng hơn.Như các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, bằng thị giác người điếc có thể phân biệt được khoảng 12 nhóm khác nhau theo âm lượng, theo mức độ nhìn biết các âm hay đôi khi như người ta gọi những hình tượng miệng

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
A o u e
ư i p
b
m
v
ph S
tr r
l x
d t
đ
n g
e
k
kh

Những nhóm này phân bố trong bảng theo mức độ tăng dần sự khó khăn khi đọc.Mỗi nhóm đều có hình tượng thị giác của cấu âm tiêu biểu, chỉ riêng đối với nó.Tuy nhiên một vài nhóm bao gồm những âm mà những hình tượng tạo âm của chúng gần nhau (b, m, p, g, k,…) những âm này thuờng bị lẫn lộn trong khi đọc, trong thực tế chúng ta thừong thấy người điếc đáng lẽ đọc ma lại thay bằng ma hoặc pa.Nét mặt cử chỉ điệu bộ là phương tiện hỗ trợ cho việc đọc hình miệng.Những điệu bộ và những thể hiện ở nét mặt phù hợp với nội dung lời văn làm cho việc đọc được dễ dàng và ngược lại.

3. Ngữ pháp
Những cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ ký hiệu và ngôn ngữ nói trong một cộng đồng là khác nhau. Ví dụ ngôn ngữ ký hiệu thành phố Hồ Chí Minh thường có thứ tự là chủ ngữ, bổ ngữ và động từ trong khi đó thì ngôn ngữ nói/viết tiếng Việt có thứ tự từ là chủ ngữ, động từ và bổ ngữ. Ngôn ngữ ký hiệu thành phố Hồ Chí Minh đặt số từ sau danh từ trong khi ngôn ngữ nói/viết tiếng Việt đặt số từ trước danh từ .

Do tính giản lược và có điểm nhấn nên cấu trúc ngữ pháp ngôn ngữ ký hiệu nhiều khi không thống nhất, cùng một câu có thể sắp xếp nhiều cách khác nhau (thường thì điểm nhấn đuợc đưa lên đầu câu để gây hiệu quả chú ý)

VD: Bình thường ta nói: Hôm qua, tôi gặp lại người bạn thân ở công viên. (Trong câu này, điểm nhấn là GẶP, và BẠN THÂN)

NNKH: Bạn thân Gặp ở công viên hôm qua.

4. Ngôn ngữ viết

Ngôn ngữ viết chỉ xuất hiện trong một số cá nhân không phải là câm điếc bẩm sinh tức là họ được đến trường được học hành.Ở người bình thường việc tiếp thu ngôn ngữ nói thuờng đi trước việc tiếp thu ngôn ngữ viết; còn ở người câm điếc quá trình này thường diễn ra song song, đôi khi những kỹ năng ngôn ngữ viết tiếp thu nhanh hơn ngôn ngữ nói.Vì ngôn ngữ viết mặc dù khó nhưng chúng lại có một số ưu thế hơn so với ngôn ngữ nói, vì nó không đòi hỏi phải nghe mà tiếp nhận nhờ quan sát bằng mắt.Người câm điếc trong khi viết thường dùng từ không đúng với nghĩ của từ, hoặc làm sai lệch các thành phần câu và từ.

VD: Từ vựng khó hiểu nên dùng từ điển mà xem hiểu giải thích cho hội viên biết (ông Nguyễn Văn Ánh_ Chi hộ phó chi hội điếc Hà Nội viết)

Lịch sử Ngôn ngữ ký hiệu
http://www.deafhanoi.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=20
Ngôn ngữ ký hiệu hay ngôn ngữ dấu hiệu,
thủ ngữ là ngôn ngữ chủ yếu được cộng đồng người câm điếc sử dụng nhằm chuyển tải thông tin qua cử chỉ, điệu bộ của cơ thể và nét mặt thay cho lời nói.

384-322 TCN
Aristotle, triết gia vĩ đại của Hy Lạp, tuyên bố Người điếc không thể giáo dục được. Nếu không nghe được, con người không thể học được“.

Thế kỷ 16
Geronimo Cardano, nhà vật lý học người Padua, tuyên bố người điếc có thể học tập thông qua giao tiếp bằng ký hiệu.

Thế kỷ 17
Juan Pablo de Bonet xuất bản cuốn sách đầu tiên về ngôn ngữ ký hiệu, đồng thời công bố bảng chữ cái năm 1620 dựa trên nền tảng là ngôn ngữ ký hiệu đã được cộng đồng người điếc phát triển theo bản năng từ trước.

Thế kỷ 18
1755: Cha Charles-Michel de l’Épée (người Pháp và được coi là người khai sinh ra hệ thống ngôn ngữ ký hiệu Pháp) thành lập trường học miễn phí đầu tiên dành cho người điếc. Hệ thống ký hiệu tiếp tục được phát triển và được cộng đồng người điếc sử dụng. Hệ thống ngôn ngữ ký hiệu của Pháp được hoàn thiện trong giai đoạn này.

1778: Tại Leipzig, Đức, Samuel Heinicke, trường công lập đầu tiên dành cho người điếc không chỉ sử dụng ngôn ngữ ký hiệu mà còn dùng phương pháp nói và đọc khẩu hình (speech-reading) tiên phong cho việc dùng tất cả các phương pháp để giao tiếp tối ưu (dùng tất cả các biện pháp giao tiếp có thể: ngôn ngữ ký hiệu, cử chỉ, đánh vần bằng ký hiệu, đọc khẩu hình, nói, trợ thính, đọc, viết và tranh vẽ).

Thế kỷ 19
1815: Thomas Hopkins Gallaudet tới châu Âu nghiên cứu phương pháp giáo dục dành cho người điếc. Trở lại Hoa Kỳ cùng với giáo viên ngôn ngữ ký hiệu, Gallaudet và Laurent Clerc mở trường công dành cho người điếc đầu tiên của Hoa Kỳ tại Hartford, Connecticut năm 1817.

Thế kỷ 20
1924: tổ chức World Games đầu tiên dành cho người điếc. Bắt đầu phát triển Gestuno (ngôn ngữ ký hiệu chuẩn quốc tế).
1951: Đại hội đầu tiên của Liên hiệp Người Điếc Thế giới (WFD) diễn ra tại Roma.
1960: William Stokoe, người Mỹ, xuất bản cuốn sách ngôn ngữ học đầu tiên về ngôn ngữ ký hiệu Mỹ (American Sign Language – ASL).
1979: Klima và Bellugi tiến hành nghiên cứu đầu tiên về ngôn ngữ ký kiệu Mỹ (ASL) trên phương diện ngôn ngữ học.
1988: Đầu tháng 6, Quốc hội Cộng hòa Séc thông qua một đạo luật chính thức công nhận Ngôn ngữ Ký hiệu Séc là ngôn ngữ chính dành cho người điếc tại quốc gia này. Người điếc có quyền được nhận dịch vụ phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu miễn phí 24/24. Trẻ em điếc có quyền được giáo dục bằng ngôn ngữ ký hiệu bản địa. Thêm vào đó, theo quy định pháp luật, phụ huynh của trẻ điếc được dự các lớp ngôn ngữ ký hiệu miễn phí. Dù vậy, luật pháp vẫn chưa quy định việc phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu trong trường trung học, đại học và tòa án.
Từ những năm 2000, Việt Nam bắt đầu triển khai những nỗ lực của mình nhằm hoàn thiện và hệ thống hóa Ngôn ngữ Ký hiệu Việt Nam. Các CLB, nhóm dạy, sinh hoạt NNKH bắt đầu hình thành và nở rộ. Một số tài liệu khá công phu xuất hiện như: bộ 3 tập Ký hiệu cho người điếc Việt Nam, từ điểm NNKH Việt Nam, v.v.

Đặc điểm
Cũng như ngôn ngữ nói, ngôn ngữ ký hiệu của từng quốc gia, thậm chí là từng khu vực trong một quốc gia rất khác nhau. Điều đó là do mỗi quốc gia, khu vực có lịch sử, văn hóa, tập quán khác nhau nên ký hiệu để biểu thị sự vật hiện tượng cũng khác nhau. Chẳng hạn, cùng chỉ tính từ màu hồng thì ở Hà Nội người ta xoa vào má (má hồng), còn tại Thành phố Hồ Chí Minh lại chỉ vào môi (môi hồng). Điều tương tự cũng diễn ra khi có sự khác biệt lớn hơn trên tầm quốc gia, dẫn tới sự khác biệt của hệ thống từ vựng và ngữ pháp ngôn ngữ ký hiệu giữa các nước.

Tuy nhiên, ký hiệu tất cả mọi nơi trên thế giới đều có những điểm tương đồng nhất định. Ví dụ: ký hiệu uống nước thì nước nào cũng làm như nhau là giả bộ cầm cốc uống nước, ký hiệu lái ô tô thì giả bộ cầm vô lăng ô tô quay quay, v.v. Mỗi người (dù bình thường hay câm điếc) đều có sẵn 30% kiến thức ngôn ngữ ký hiệu. Do ngôn ngữ ký hiệu phát triển hơn trong cộng đồng người khiếm thính, nên những người thuộc cộng đồng này của hai nước khác nhau có thể giao tiếp với nhau tốt hơn hai người bình thường nhưng mà không biết ngoại ngữ.

Hai đặc điểm quan trọng nhất của NNKH là tính giản lược và có điểm nhấn,

VD: Bình thường: Anh có khỏe không ạ?
NNKH: KHỎE không?

Do tính giản lược và có điểm nhấn nên cấu trúc ngữ pháp ngôn ngữ ký hiệu nhiều khi không thống nhất, cùng một câu có thể sắp xếp nhiều cách khác nhau (thường thì điểm nhấn được đưa lên đầu câu để gây hiệu quả chú ý)

VD:Bình thường: Hôm qua, tôi gặp lại người bạn thân ở công viên.
(Trong câu này, điểm nhấn là GẶP, và BẠN THÂN)
NNKH: Bạn thân Gặp ở công viên hôm qua

Ngôn ngữ ký hiệu và cuộc sống
Thực ra, NNKH chính là cuộc sống, vì nó bắt nguồn từ cuộc sống. Dù có hay không nhận thức ra, nhưng chúng ta vẫn đã và đang sử dụng NNKH rất nhiều trong cuộc sống hàng ngày.Khoa học đã chứng minh chúng ta truyền tải ngôn ngữ 70% thông qua các biện pháp không lời, tức là cử chỉ, điệu bộ, nét mặt Một biện pháp đơn giản để nhận ra tầm quan trọng của ngôn ngữ không lời là bạn hãy thử nói chuyện mà nhắm mắt và hoàn toàn không cử động thân thể. Chỉ 30 phút thôi, bạn sẽ ngạc nhiên nhận thấy hiệu quả câu chuyện rất thấp. Chúng ta hoàn toàn mất phương hướng và khả năng phán đoán nếu không có các cử chỉ, điệu bộ, nét mắt của người đối thoại hướng dẫn, cũng như nếu không dùng tay chân thì hiệu quảtruyền đạt củng giảm hẳn.

Bạn làm thế nào để diễn đạt tính từ to lớn? Có phải dùng 2 tay khoát một vòng tròn lớn trong không khí? Thế nếu ai đó giả bộ cầm micro đung đưa nhún nhảy trước miệng thì bạn nghĩ đến động từ gì? Có phải hát không? Bạn làm thế nào để biểu hiện đang gõ cửa? Có phải giả bộ gõ gõ vào một cái cửa không khí trước mặt không? Diễn tả động từ ngủ thì sao? Có phải áp tay lên má và nhắm mắt lại không?

Như thế, NNKH tràn ngập trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta có thể không nhận thức, nhưng nó vẫn tồn tại, phát triển và giúp cho cuộc sống tiện lợi, thoải mái hơn. Nói cách khác, chính những người bình thường phát minh ra NNKH, người câm điếc làm một việc là mô phỏng và hệ thống hóa tất cả lại thành một thứ ngôn ngữ của riêng họ.

Vậy tại sao không học NNKH để hoàn thiện hơn 70% khả năng truyền tải thông tin trong mỗi chúng ta?

Chuẩn hóa và phổ biến ngôn ngữ ký hiệu
Tại Việt Nam hiện nay có rất nhiều phương ngữ ký hiệu khác nhau theo từng khu vực: Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Đà Nẵng, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, v.v. Trong đó, ba phương ngữ ký hiệu được sử dụng chính là Hà Nội, Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, người ta cũng đang nỗ lực xây dựng một hệ thống ngôn ngữ ký hiệu chuẩn quốc gia.

Việc học ngôn ngữ ký hiệu ở các quốc gia phát triển như Anh, Pháp, Nhật Bản rất thuận lợi do tài liệu học rất phổ biến trên mạng. Hiện nay việc học ngôn ngữ ký hiệu tại Việt Namcũng thuận lợi hơn do một số nhóm, câu lạc bộ đã hình thành và tiến hành giảng dạy (chẳng hạn Câu lạc bộ Ngôn ngữ ký hiệu của Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh).

http://www.aslpro.com/cgi-bin/aslpro/aslpro.cgi
http://vi.wikibooks.org/wiki/Ng%C3%B4n_ng%E1%BB%AF_k%C3%BD_hi%E1%BB%87u

9 câu hỏi hay về Ngôn ngữ Ký hiệu
http://www.deafhanoi.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=39
2. Trong quá khứ, người điếc bị phân biệt đối xử như thế nào?
Người câm điếc từng bị coi là người bị thiểu năng trí tuệ. Và thậm chí Aristotle vĩ đại còn cho rằng không thể giáo dục được người câm điếc. Mãi đến tận gần đây, nhiều nơi trên thế giới vẫn cấm sử dụng NNKH, thay vào đó, họ bắt người câm điếc tập nói và tập đọc môi khi giao tiếp. Hết biết, bó tay!!! ❗

7. Vừa câm điếc, vừa bị mù thì sao?
Thảm họa đúng không? Nhất là câm điếc và mù bẩm sinh với mức độ tồi tệ nhất. Tuy nhiên, trên lý thuyết vẫn hoàn toàn có thể giáo dục để hòa nhập được : qua một giác quan duy nhất : xúc giác. VD : để dạy khái niệm về cái bàn chẳng hạn, phải cho người học sờ vào cái bàn, sau đó đối chiếu cảm nhận về cái bàn với chữ nổi Braille.

9. Vì sao thống kê số người điếc rất khó?
Dù sao, Bộ LĐ-TB-XH cũng có thống kê người khuyết tật (trong đó có người câm điếc) nhưng chỉ đưa ra con số chung chung (câm điếc cỡ 2 triệu người)

Bảng Chữ Cái Đánh vần Ngôn Ngữ Ký Hiệu Viet Nam

DCOH2001 – Thầy Khiêm chỉ dạy „GIA ĐÌNH“ bằng ngôn ngữ ký hiệu.

Ngôn ngữ ký hiệu đơn giản

Dạy nnkh trên VTV2:Bài 2-Cách chào hỏi giới thiệu

Lá cờ – Ngôn ngữ ký hiệu

Kỳ I: Lịch sử hình thành ngôn ngữ ký hiệu tại Việt Nam
http://www.deafhanoi.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=76

Kỳ II: Cảm xúc trong diễn đạt ngôn ngữ ký hiệu 22.08.2012
http://www.deafhanoi.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=77

Ngôn ngữ ký hiệu (NNKH) là một ngôn ngữ nhiều cảm xúc. Khí nói, chúng ta sử dụng thanh quản, lưỡi, miệng và hai tai. Khi ra dấu, chúng ta sử dụng hai bàn tay, mắt, môi, hàm và xúc giác. Xúc giác, cảm xúc thể hiện một sinh khí khi chúng ta ra dấu. Ra dấu với những cảm xúc kèm theo đó là chúng ta diễn tả cảm giác từ cơ thể và linh hồn chúng ta như thế nào. Thể hiện cảm xúc khi đang đói, khổ, hạnh phúc hay hơn diễn tả bằng lời nói. Học cách diễn tả cảm xúc trong sử dụng NNKH đó là chìa khóa giúp chúng ta hiểu rõ sức mạnh và sự gần gũi của NNKH.

Hãy thử tưởng tượng bạn không thể nói và không nghe được. Bạn phải tìm mọi cách để thể hiện cảm nhận của mình cho người khác biết. Ngay lập tức, cơ thể của bạn thể hiện những phản ứng vô thức về cảm xúc của bạn. Những phản ứng vô thức này đôi khi cũng là bản tính thứ hai của con người mà chúng ta không nhận ta rằng cơ thể chúng ta giao tiếp cũng mạnh mẽ như là lời chúng ta nói. Giả thử trên thế gian này không có câu Anh yêu em hay Em yêu anh thì làm thế nào bạn thể hiện được sự quan tâm của bạn đối với người bạn yêu?

NNKH là ngôn ngữ không lời và có năm thành phần chính dựa vào cách mà cơ thể con người diễn tả cảm xúc.
Theo trình tự bắt đầu từ tính chất quan trọng nhất,
năm thành phần này bao gồm:

Tiếp xúc qua ánh mắt
Không thể giao tiếp được nếu không nhìn vào mắt nhau. Quay đi chỗ khác là dấu hiệu cho thấy cuộc trò chuyện kết thúc, và có thể, người nói rất đau buồn khi bị ngắt ngang hay bị phớt lờ như thế. Thông thường, không có sự tiếp xúc qua ánh mắt là dấu hiệu giận dữ hay thô lỗ. Với NNKH cũng vậy, để giao tiếp thành công phải duy trì việc tiếp xúc qua ánh mắt. Người nghe có thể vừa làm việc vừa nói chuyện không cần phải ngừng công việc để nhìn người nói chuyện với mình, nhưng với người khiếm thính thì đây là điều không thể.

Diễn tả của nét mặt
Diễn tả nét mặt là yếu tố rất quan trọng trong sử dụng NNKH. Chúng ta không thể nào có một khuôn mặt tươi cười khi làm dấu đang đau khổ, ngược lại, cũng không thể có khuôn mặt buồn bã khi thể hiện ký hiệu hạnh phúc. Thông thường, diễn tả nét mặt giúp chúng ta phân biệt dấu hiệu của những tiếng danh từ và động từ. Ví dụ như ký hiệu trái cam, trái chanh và vắt cam, vắt chanh chỉ khác nhau ở cách diễn tả qua nét mặt.

Ngôn ngữ cơ thể
Cơ thể của chúng ta phản ứng một cách tự nhiên với thế giới xung quanh, Chúng ta tránh xa những vật chúng ta không thích hay sợ sệt. Chúng ta tiếp cận những vấn đề chúng ta tò mò muốn biết hoặc nó hẫp dẫn chúng ta. Phản ứng theo bản năng của một người, hướng tới hay tránh xa, thể hiện rất thật cảm xúc của người đó. Khi thể hiện ký hiệu bạn (ngôi thứ hai số ít), chúng ta hướng ngón trỏ của bàn tay thuận về phía người đối diện. Người đối diện có thể là người đứng ngay trước mặt chúng ta, cũng có thể là người đứng bên trái hay bên phải khi chúng ta hơi xoay thân người nhìn sang trái hoặc phải. Trong NNKH, chuyển động của cơ thể giúp làm phong phú thêm những khái niệm giao tiếp.

Chuyển động của miệng
Chuyển động của miệng khi ra dấu không giống như khi chúng ta nói. Chuyển động của miệng có thể diễn tả hình dạng và kích thước. Ví dụ, chúng ta phồng má ra khi thể hiện một vật to lớn, mím môi hay hút không khí khi nói về vật mỏng và nhỏ.

Chuyển động của bàn tay
Dĩ nhiên là không thể có NNKH nếu không có chuyển động của bàn tay. Bàn tay nói là ngôn ngữ nhìn thấy được, do đó, điều quan trọng khi giao tiếp bằng NNKH là nắm được bản chất, quy luật chuyển động và cái đẹp của nó. Chuyển động của bàn tay thôi chưa đủ mà phải kết hợp với bốn yếu tố kể trên. Một ký hiệu có thể có ý nghĩa khác nhau tùy vào diễn tả của nét mặt, ngôn ngữ cơ thể Một khuôn mặt không biểu lộ tình cảm thì không thể nào cải tiến được kỹ năng giao tiếp bằng NNKH.

Khi chúng ta học cách biểu lộ cảm xúc mà không gượng gạo, khi chúng ta không phải lo lắng cách thể hiện về chúng ta có chính xác hay không, làm giàu thêm cảm xúc trong giao tiếp bằng NNKH sẽ giúp chúng ta hiểu xâu xa hơn những xúc cảm quý giá của con người./.

Bạn đang xem bài viết: Gebärdensprache – ngôn ngữ ký hiệu. Thông tin được tạo bởi Cấp 2 Thống Nhất chọn lọc và tổng hợp cùng với các chủ đề liên quan khác.